[Phần 1] Đầu tư thâu tóm - Nghệ thuật 'vây bắt' doanh nghiệp



Warren Buffett
Chúng ta biết đầu tư giá trị là mua các cổ phiếu có giá rẻ hơn so với giá trị thực của công ty. Tuy vậy việc khi nào mức giá trở về giá trị thực lại bị động phụ thuộc vào đánh giá của thị trường. Để chủ động, nhiều nhà đầu tư quyết định đứng lên nắm lấy vận mệnh của chính mình. Họ mua lượng đáng kể cổ phiếu tại một công ty niêm yết rồi yêu cầu tham gia vào ban giám đốc để thực hiện những thay đổi nhằm giúp giá cổ phiếu tiệm cận về giá trị thực của doanh nghiệp.
Tất nhiên quá trình này thường xảy ra xung đột mạnh mẽ giữa những người đang lãnh đạo và những người mới đến. Trong quá trình xung đột này, nhà đầu tư thường có cơ hội tiếp cận với nhiều thông tin hơn để đánh giá doanh nghiệp chính xác hơn. Nó gợi mở ra những cơ hội mà thông thường chúng ta không nhận ra. Đó là lý do Michael Price khuyên chúng ta nên chú ý tới những doanh nghiệp đang có xung đột.
Khi còn trẻ Warren Buffett đã từng thâu tóm lượng lớn cổ phiếu, gây sức ép lên ban lãnh đạo công ty và yêu cầu họ có những hành động thích hợp để giá cổ phiếu phản ánh chính xác hơn giá trị của doanh nghiệp. Chúng ta hãy cùng điểm lại một số thương vụ nổi bật của ông.
Sanborn Map.
Năm 1959, thương vụ đầu tư lớn nhất, chiếm tới hơn 1/3 danh mục của Buffett là công ty Sanborn Map. Sanborn chuyên xuất bản các bản đồ chi tiết về hệ thống điện, đường, nước, thang thoát hiểm, v.v cho các thành phố của Mỹ. Khách hàng của công ty chủ yếu là các công ty bảo hiểm. Trong 75 năm hoạt động, Sanborn gần như độc quyền, thu được lợi nhuận lớn mà không cần đầu tư nhiều cho các hoạt động bán hàng.
Cho tới những năm 1950s, lợi nhuận của công ty giảm sút dần khi các doanh nghiệp bảo hiểm hạn chế giá mua các sản phẩm của công ty. Nếu những năm 1930s, lợi nhuận của công ty hàng năm lên tới $500K thì vào thập kỷ 1950s, lợi nhuận của công ty chỉ còn $100K trên doanh thu $2.5M. Tuy nhiên Sanborn sở hữu danh mục đầu tư trị giá $7M tương đương $65/1 cổ phiếu. Giá cổ phiếu giao dịch ở $45.
Vào năm 1938, cổ phiếu Sanborn có giá $110, danh mục đầu tư khi đó trị giá $20, ám chỉ mảng kinh doanh bản đồ có giá $90. Qua 20 năm sau, năm 1958, cổ phiếu Sanborn có giá $45, đồng nghĩa với việc cùng mảng kinh doanh đó giờ trị giá âm $20/1 cổ phiếu hoặc nói cách khác giá trị danh mục đầu tư được định giá 69 cent/1 dollar.
Quỹ Buffett mua 46.000 cổ phiếu Sanborn, chiếm 43.8% trên tổng số 105,000 cổ phần, đủ để Buffett có ghế trong ban lãnh đạo. Buffett lưu ý rằng trong 8 năm qua, công ty đã 5 lần giảm cổ tức nhưng không hề có gợi ý nào về việc cắt giảm lương thương của ban lãnh đạo và hội đồng[quản trị].
Ngay trong cuộc họp lãnh đạo đầu tiên, Buffett nhận ra vì sao cổ phiếu Sanborn có giá rẻ: hầu hết ban lãnh đạo đều là người của các công ty bảo hiểm và bản thân những người này tổng cộng chỉ nắm giữ có 46 cổ phiếu. Buffett yêu cầu công ty bán danh mục đầu tư và phân chia cho các cổ đông. Yêu cầu này tất nhiên bị phủ quyết bởi các thành viên khác ngay lập tức.
Sau đó Buffett nghĩ ra một ý tưởng khác: ông yêu cầu công ty mua lại cổ phiếu của các cổ đông muốn thoái vốn với mức giá hợp lý cho danh mục đầu tư của công ty. Ban lãnh đạo công ty buộc lòng phải chấp nhận đề xuất này vì đằng nào họ cũng sẽ thua nếu đưa ra biểu quyết tại đại hội cổ đông (proxy fight). Một nửa trong tổng số 1600 cổ đông, đại diện cho 72% cổ phần đồng ý thoái vốn theo như đề xuất của Buffett.
Những thương vụ như này Buffett gọi là “Control Situation” trong danh mục của mình. Nó góp phần không nhỏ vào lợi nhuận của quỹ Buffett, nhất là trong những năm thị trường suy giảm.
Còn tiếp...


Nguồn:
Buffett Partnership Letters.
Tobias E. Carlisle - Deep Value: Why Activist Investors and Other Contrarians Battle for Control of Losing Corporations

Comments

Popular posts from this blog

Quỹ Sơn Tùng - Thư gửi các nhà đầu tư bán niên 2015

[Backtest Strategies - Nghiên cứu một số chiến lược đầu tư giá trị - update 2019]

[Quỹ Sơn Tùng] Thư gửi các nhà đầu tư năm 2013.